Nghiên cứu mới phát hiện vi rút có “mắt và tai” để xem xét chúng ta, một số loại vi rút có khả năng giám sát môi trường.
Công trình này có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển thuốc kháng vi rút.
Vi rút có mắt và tai để xem xét chúng ta – Ảnh: LIST23
Đây là nghiên cứu của Đại học Maryland Baltimore County (UMBC) và được công bố trên tạp chí Frontiers in Microbiology.
Theo nhóm nghiên cứu, vi rút đang sử dụng thông tin từ môi trường của chúng để “quyết định” khi nào bám chặt bên trong vật chủ của chúng, khi nào sinh sôi và bùng phát, g.iết c.hết tế bào vật chủ.
Theo nhà khoa học Ivan Erill – tác giả chính của nghiên cứu và là giáo sư khoa học sinh học tại UMBC – khả năng cảm nhận được môi trường của vi rút bao gồm các yếu tố do vật chủ tạo ra và sự tương tác giữa vi rút và vật chủ.
Nhóm của ông đã tập trung vào vi khuẩn, thường được gọi đơn giản là “thực khuẩn”. Chúng là vi rút lây nhiễm vi khuẩn (gọi là phage). Trong nghiên cứu, các phage chỉ có thể lây nhiễm sang vật chủ của chúng khi các tế bào có các phần phụ đặc biệt, được gọi là pili và roi, giúp vi khuẩn di chuyển và g.iao p.hối.
Vi khuẩn tạo ra một loại protein gọi là CtrA kiểm soát thời điểm chúng gắn vào các phần phụ này. Nghiên cứu cho thấy nhiều phage phụ thuộc vào phần phụ trong ADN của chúng, nơi protein CtrA có thể gắn vào, được gọi là các vị trí liên kết.
Tại vị trí liên kết, các phage sẽ theo dõi sự hiện diện của protein này để “quyết định” xem có nên ở lại hay sao chép và xuất hiện ở vật chủ của nó.
“Nếu bạn đang phát triển một loại thuốc kháng vi rút và bạn biết vi rút đang lắng nghe một tín hiệu cụ thể, thì bạn có thể đ.ánh lừa chúng”, trang SciTech Daily dẫn lời ông Ivan Erill.
Nghiên cứu mới này là minh chứng cho thấy các phage đang lắng nghe những gì diễn ra trong tế bào, trong trường hợp này là về sự phát triển của tế bào. Đồng thời vi rút sẽ sử dụng thông tin tế bào để đưa ra quyết định.
Ví dụ, một vi rút động vật có thể muốn biết phản ứng miễn dịch của vật chủ đối với sự lây nhiễm của nó mạnh mẽ như thế nào, để tối ưu hóa chiến lược tồn tại và nhân rộng của nó.
“Nếu bạn đang phát triển một loại thuốc kháng vi rút và bạn biết vi rút đang lắng nghe một tín hiệu cụ thể, thì bạn có thể đ.ánh lừa được vi rút”, ông Erill nói.
Tuy nhiên, hiện tại nhóm nghiên cứu mới bắt đầu nhận ra mức độ tích cực của vi rút để mắt đến chúng ta và cách chúng theo dõi những gì đang xảy ra xung quanh để đưa ra quyết định.
Ngủ trưa liên quan nguy cơ tăng huyết áp
Giấc ngủ trưa thường xuyên hoặc thậm chí bình thường vào ban ngày ở người lớn có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh cao huyết áp cao hơn 12% và nguy cơ đột quỵ cao hơn 24% so với người không bao giờ ngủ trưa.
Đây là kết quả của một nghiên cứu mới được đăng trên báo cáo Hypertension của Hiệp hội Tim mạch Mỹ.
Các nhà nghiên cứu đã thu thập thông tin từ cơ sở dữ liệu y sinh chứa thông tin sức khỏe và di truyền của nửa triệu người tham gia ở Anh. Nghiên cứu đã thực hiện khảo sát 4 lần từ năm 2006 – 2019, người tham gia báo cáo về tần suất ngủ trưa của mình, từ “không bao giờ”, “hiếm khi”, “thỉnh thoảng” đến “thường xuyên”.
Giáo sư E.Wang, Chủ nhiệm khoa Gây mê tại Bệnh viện Xiangya, Đại học Central South (Trung Quốc), cho biết những người tham gia dưới 60 t.uổi thường ngủ trưa có nguy cơ mắc bệnh cao huyết áp cao hơn 20% so với những người cùng t.uổi không bao giờ ngủ trưa. Sau 60 t.uổi, ngủ trưa thông thường có liên quan đến nguy cơ tăng huyết áp cao hơn 10% so với những người cho biết không bao giờ ngủ trưa. Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ nguy cơ cao hơn đối với nam giới thường ngủ trưa và có hút t.huốc l.á, uống rượu hằng ngày, theo USA Today.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lưu ý những người tham gia vào nghiên cứu chủ yếu là người trung niên và cao t.uổi, vì vậy kết quả có thể không khách quan với tất cả mọi người.
Tiến sĩ Michael Grandner, Phó giáo sư tâm thần học tại Đại học Arizona (Mỹ), nhà nghiên cứu về giấc ngủ, nhận định bản thân việc ngủ trưa không có hại nhưng có thể nhiều người ngủ trưa là do ngủ không ngon giấc vào ban đêm. Ngủ kém vào ban đêm phản ánh sức khỏe cơ thể đang yếu và giấc ngủ ngắn buổi trưa không đủ để bù đắp điều đó.
Theo Hiệp hội Tim mạch Mỹ, việc ngủ đủ giấc vào ban đêm có vai trò quan trọng đối với sức khỏe tim mạch. Thể trạng mỗi người có nhu cầu về thời gian ngủ khác nhau, nhưng theo khuyến cáo chung của các nhà thần kinh học, người lớn cần ngủ khoảng 7 – 9 tiếng mỗi ngày.